TIN MỚI:
Kỷ niệm 55 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ năm (31/12/1966 – 31/12/2021) và 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ tư (26/3/1962 – 26/3/2022)
Ngày: 26/03/2022
Nhân kỷ niệm 55 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ năm (31/12/1966 – 31/12/2021) và 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ tư (26/3/1962 – 26/3/2022). Trang Thông tin điện tử của Ủy ban MTTQ Việt Nam xin đăng toàn văn Kế hoạch số 15-HD/BTGTU, ngày 14/12/2021 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và đề cương tuyên truyền kỷ niệm.

 

 

 

ĐỀ CƯƠNG

Tuyên truyền Kỷ niệm 55 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình

lần thứ năm (31/12/1966 – 31/12/2021) và 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ tư (26/3/1962 – 26/3/2022)

-----

I- THÁI BÌNH 5 LẦN ĐÓN BÁC VỀ THĂM

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến phong trào cách mạng của địa phương, trong đó có phong trào cách mạng Thái Bình và Thái Bình cũng là tỉnh vinh dự được năm lần đón Bác về thăm.

1. Lần thứ nhất: Để động viên tinh thần cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn, đắp đê chống lụt, tích cực tăng gia sản xuất, ngày 10-01-1946, Bác đã về thăm Thái Bình. Sau khi làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh, Người đã đến thăm đoạn đê mới vỡ - đê Đìa (xã Hồng An, huyện Hưng Hà).

2. Lần thứ hai: biết tin nhân dân Thái Bình chỉ trong 3 tháng đã khắc phục được hậu quả do vỡ hai quãng đê, để biểu dương thành tích gia tăng sản xuất và đắp đê của tỉnh, ngày 28 – 4 – 1946, Bác đã về thăm lại Thái Bình.  Tại nhà trí thể dục (thị xã Thái Bình) Bác đã gặp gỡ nói chuyện với 5 vạn cán bộ, nhân dân trong tỉnh.

3. Lần thứ ba: năm 1958, Thái Bình giành thắng lợi lớn trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã, để động viên phong trào, ngày 26 – 10 – 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thái Bình lần thứ ba. Sau khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Người tới dự Đại hội sản xuất Đông – Xuân tỉnh Thái Bình. Tại sân vận động thị xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có buổi nói chuyện với 4 vạn đại biểu nhân dân các cấp trong tỉnh.

4. Lần thứ tư: được biết, Thái Bình có phong trào lấn biển khai hoang và toàn tỉnh đạt thành tích cao trong sản xuất, ngày 26 – 3 – 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm và động viên phong trào. Người đến thăm hợp tác xã Nam Cường, xã điển hình trong công tác khai hoang lấn biển. Sau đó, Người đến thăm và dự Hội nghị phát động phong trào sản xuất trong nông nghiệp toàn tỉnh tại xã Đông Lâm.

5. Lần thứ năm: năm 1966, Thái Bình đã giành được thắng lợi lớn trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, đạt năng suất lúa 5 tấn/ha. Để động viên kịp thời phong trào cách mạng, biểu dương thành tích của cán bộ, đảng viên, quân và dân trong tỉnh, ngày 31-12-1966, Bác về thăm Thái Bình lần thứ năm. Người làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh tại nơi sơ tán (thôn Đại Đồng, xã Tân Hoà, huyện Thư Trì). Tại đây, sáng 01-01-1967, Bác đã nói chuyện với trên 100 cán bộ đại biểu, đại diện cho bốn vạn đảng viên và trên một triệu đồng bào trong tỉnh.

II- BÀI NÓI CHUYỆN CỦA BÁC VỚI ĐỒNG BÀO VÀ CÁN BỘ TỈNH THÁI BÌNH LẦN THỨ TƯ VÀ LẦN THỨ NĂM

1. Bài nói chuyện của Bác với cán bộ, đảng viên và nhân dân Thái Bình trong lần Bác về thăm tỉnh lần thứ tư

Thưa đồng bào và các đồng chí!

So với ba năm rưỡi trước đây (từ tháng 10 - 1958), Bác về thăm Thái Bình lần trước thì năm nay tỉnh nhà có tiến bộ về nhiều mặt như tăng vụ, vỡ hoang, thủy lợi, phân bón… Đó là do sự cố gắng của đồng bào và cán bộ. Đó là điều đáng khen.

Tuy vậy, so với nhu cầu của nhân dân và so với các nơi khác, thì tỉnh nhà tiến bộ còn chậm, vài ví dụ:

Về mặt sản xuất chỉ có hoa màu tăng, còn các thứ khác đều không đạt kế hoạch, như:

- Lúa chỉ đạt 78%.

- Các cây công nghiệp như bông chỉ đạt: 60%, lạc: 50%, mía: 45%.

- Cây trồng khá nhiều nhưng vì săn sóc kém, cho nên trồng nhiều mà sống được ít.

- Về chăn nuôi, thì số lợn, trâu, bò, cá biển đều sụt.

- Thu mua thóc cho Nhà nước chỉ đạt 82%, thu nợ của ngân hàng còn kém.

- Vì sao vậy? Các cấp ủy đảng, các cán bộ từ tỉnh đến huyện, đến xã cần phải phụ trách, trả lời câu hỏi ấy và phải tìm ra biện pháp thiết thực để tiến lên.

Hiện nay ở tỉnh nhà, 88% tổng số nông hộ đã vào hợp tác xã, trong số đó gần 50% số hợp tác xã có từ 100 hộ trở lên. Về số lượng như thế là vừa tốt. Mỗi hợp tác xã, số xã viên không nên quá ít, vì quá ít thì không đủ sức để phát triển, cũng không nên quá nhiều, vì quá nhiều thì khó quản lý.

Hợp tác xã nên tổ chức và quản lý thế nào cho tốt? Muốn biết rõ điều đó, tất cả đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động là xã viên hợp tác xã cần phải nghiên cứu kỹ “Nghị quyết của Hội nghị lần thứ năm của Trung ương Đảng về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất” và bài nói chuyện của Bác về Nghị quyết đó. Cần nghiên cứu kỹ và thực hiện theo đúng Nghị quyết.

Ở đây, Bác chỉ nêu vài điểm:

- Ở tỉnh nhà, bình quân mỗi mẫu tây chỉ bón non 8 tấn phân như thế là còn ít; trong khi đó thì các tỉnh khác đang hăng hái thi đua với hợp tác xã Tân Khang bón mỗi mẫu 54 tấn phân các loại, tức là gần gấp 7 lần ở Thái Bình.

- Số ngày lao động quá ít, bình quân mỗi người mỗi năm chỉ làm việc 180 ngày cả thảy. Như vậy là trong một năm 365 ngày, chỉ lao động một ngày lại nằm nghỉ một ngày! Lao động ít thì sản xuất được ít. Sản xuất ít thì thu nhập được ít. Thu nhập ít thì cải thiện đời sống không được nhiều.

- Ở trong tỉnh có nhiều kinh nghiệm tốt, như:

Hợp tác xã Hiệp Hòa và Đông Lâm tăng vụ, tăng năng suất, tăng nghề phụ khá.

Hợp tác xã Đông Mỹ cải tiến nông cụ khá.

Hợp tác xã Đông Phú chăn nuôi khá.

Hợp tác xã An Cầu tăng năng suất khá…

Nhưng cán bộ chưa biết phổ biến những kinh nghiệm tốt đó và các hợp tác xã chưa biết học hỏi lẫn nhau.

- Hợp tác xã của đồng bào Công giáo phát triển chậm. Nguyên nhân là do lãnh đạo và cán bộ không đi sâu đi sát.

Chúng ta có những hợp tác xã của đồng bào Công giáo phát triển rất tốt. Vài ví dụ: Ngay ở tỉnh nhà, hợp tác xã Xứ Riến lúc thành lập (mùa thu 1959) chỉ có 5 hộ, nay đã tăng đến 65 hộ. Năng suất mỗi mùa mỗi tăng, đời sống xã viên được cải thiện rõ rệt. Vì vậy mà bà con ngày càng tin tưởng và gắn bó với hợp tác xã.

Hợp tác xã Ngọc Sơn (Thanh Hóa) lúc đầu chỉ có 13 hộ, nay đã tiến lên toàn thôn. Thu hoạch có hộ gấp rưỡi, có hộ gấp đôi. Bà con xã viên đã nói: “Hợp tác xã chúng tôi bây giờ có vác gậy đuổi cũng không ai ra!”.

Đó là mấy kinh nghiệm tốt mà lãnh đạo và cán bộ cần phải phổ biến.

- Về công nghiệp và thủ công nghiệp đều có cố gắng. Nhưng còn phải cố gắng hơn nữa để phục vụ tốt sản xuất nông nghiệp và nhu cầu của nhân dân.

- Về văn hóa giáo dục, số người học bổ túc văn hóa tăng nhiều. Ở cơ quan, xí nghiệp, nông trường, số người đi học gần được 100%. Như thế là tốt. Nhưng cần phải nâng cao chất lượng hơn nữa. (Kỳ thi giữa năm, trong 105.000 học viên thì chỉ có 24.000 người đỗ).

- Giáo dục phổ thông - Các trường học đều có tiến bộ. Nhưng các lớp mẫu giáo chỉ có 850 cháu, như thế là quá ít. Cần phải cố gắng mở rộng thêm.

- Vệ sinh phòng bệnh - Số giếng ăn nước và hố xí kiểu mới đều có tăng, cần phải tiếp tục tăng thêm nữa.

- Đời sống mới - Những thói mê tín như đồng bóng, bói toán, cúng lễ đã giảm nhiều. Nhưng thói phô trương lãng phí trong lúc ma chay, cưới hỏi vẫn còn.

Xấu nhất là tệ đánh đập vợ, ép duyên con, thói tảo hôn chưa hoàn toàn chấm dứt.

Thái Bình phải cố gắng trở thành một tỉnh gương mẫu về mỹ tục thuần phong.

- Về trật tự trị an - Bộ đội, công an và dân quân đều cố gắng làm trọn nhiệm vụ. Đồng thời, toàn Đảng và toàn dân ta phải luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, luôn luôn sẵn sàng giúp sức bộ đội, công an và dân quân ngăn chặn những kẻ gian phi và đập tan mọi âm mưu địch phá hoại.

Công việc cấp bách trước mắt là đồng bào và cán bộ phải quyết tâm tranh thủ vụ Đông  - Xuân thắng lợi và chuẩn bị tốt cho vụ thu và vụ mùa.

Kết luận: - Thái Bình là một trong những tỉnh nhiều người nhất. Nhân dân sẵn có truyền thống anh dũng và cần cù. Đất đai tốt. Thủy lợi tiện. Lương thực nhiều. Nông nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh.

Tỉnh ta lại có gần 77.000 đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động. Trung ương giao trách nhiệm cho mỗi đồng chí đảng viên và đoàn viên phải nâng cao tinh thần cách mạng, phấn đấu vươn lên, phải chống tư tưởng bảo thủ và chủ quan, chống tác phong quan liêu và đại khái, phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân; phải làm gương mẫu, làm đầu tàu cho đồng bào trong phong trào thi đua yêu nước tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, để xây dựng Tổ quốc giàu mạnh và nâng cao đời sống của nhân dân. Phải ra sức củng cố và phát triển tốt chi bộ và phân đoàn. Đồng bào và cán bộ phải có quyết tâm làm cho Thái Bình trở nên một trong những tỉnh khá nhất, để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm nền tảng vững mạnh cho công cuộc thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.

Bác nhờ các đồng chí chuyển lời thân ái của Trung ương và của Bác đến đồng bào, bộ đội và cán bộ các nơi. Bác đặc biệt gửi lời khen ngợi các cháu thanh niên và các xã viên đang hăng hái xung phong đi vỡ hoang ở các nơi.

2. Bài nói chuyện của Bác với cán bộ, đảng viên và nhân dân Thái Bình trong lần Bác về thăm tỉnh lần thứ năm

Thưa đồng bào và các đồng chí!

Hôm nay, Bác cùng với các đồng chí Tố Hữu và Hoàng Anh, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ về thăm Thái Bình là tỉnh trong năm 1966 đã sản xuất khá giỏi. Bây giờ có mấy câu chuyện nói với các cụ, các cô, các chú.

Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng và toàn dân ta là sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sản xuất và chiến đấu là hai mặt trận quan hệ rất mật thiết với nhau. Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã là chiến sỹ sản xuất, cần phải cố gắng như chiến sỹ ngoài mặt trận. Các xã viên hợp tác xã phải sản xuất tốt để bộ đội và nhân dân ta ăn no, đánh thắng. Vì vậy, nhiệm vụ của các hợp tác xã nông nghiệp, của bà con xã viên, của cán bộ công tác ở nông thôn là rất quan trọng.

Các chiến sỹ ở ngoài mặt trận phải có đầy đủ vũ khí, phải nắm vững chiến thuật để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên mặt trận sản xuất, cán bộ và xã viên phải nắm vững kỹ thuật canh tác để thâm canh tăng năng suất. Muốn tăng năng suất trước hết phải làm tốt thuỷ lợi, phải nhiều phân bón. Phân bón thì có thứ phân bón sẵn có, chỉ cần ta xúc lấy là được, như bùn, nước phù sa. Nhưng phân chuồng là loại phân bón tốt nhất. Muốn có nhiều phân chuồng thì phải chăn nuôi tốt, nhất là nuôi lợn. Có đủ nước, nhiều phân rồi, lại còn phải chọn giống tốt, phải phòng trừ sâu bệnh thì mới thu hoạch được nhiều. Trong sản xuất có nhiều việc quan hệ với nhau. Có làm tốt cả các biện pháp thì ruộng mới có năng suất cao, mùa màng mới thắng lợi.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, phải coi trọng cả lúa và hoa màu. Có lúa lại phải có nhiều hoa màu thì lương thực mới dồi dào. Hoa màu dùng làm thức ăn cho người, lại còn để chăn nuôi lợn.

Trong việc chăn nuôi còn phải  chú ý nuôi nhiều cá, để thêm thức ăn.

Một việc quan trọng nữa là phải trồng cây gây rừng. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Trồng 100 cây mà sống cả, tốt cả thì hơn trồng 1000 cây mà chỉ sống được 90 cây. Việc trồng cây nên dựa vào các lực lượng các cụ phụ lão và các cháu nhi đồng. Các cụ vừa có kinh nghiệm trồng cây, vừa cẩn thận, tỉ mỉ chăm sóc cây cối. Các cháu nhỏ ở nông thôn cần giúp các cụ giữ gìn cây tốt, không để trâu bò phá hại.

Muốn làm tốt những công việc sản xuất thì phải tổ chức và phân phối sức lao động cho tốt. Sau này, kháng chiến thắng lợi, chúng ta sẽ có nhiều máy móc để thay thế cho sức người và sức trâu bò. Nhưng bây giờ chúng ta cần nhiều sức trâu bò. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Phải chăm sóc trâu bò, không được để trâu bò đói rét.

Muốn sử dụng tốt sức người vào công việc sản xuất, thì cần ra sức cải tiến công cụ. Một người gánh khoẻ cũng chỉ được độ 50 cân, nhưng một người kéo một cái xe thì có thể chở được hơn vài tạ, tức là gấp mấy lần gánh.

Sức người có nhiều loại: có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho hợp lý, người khoẻ thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ.

Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khoẻ cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt. Ví dụ: Khi phụ nữ có kinh thì hợp tác xã chớ phân công họ đi làm ở chỗ ruộng sâu, nước rét. Các hợp tác xã phải có những tổ giữ trẻ tốt để phụ nữ có con mọn có chỗ gửi các cháu để yên tâm lao động.

Một điều nữa, Bác cần nói là: phải kính trọng phụ nữ. Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau. Lê nin dạy chúng ta: phụ nữ là một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng cả. Phụ nữ thì phải tự mình phấn đấu giữ quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông phải kính trọng phụ nữ. Nhưng Bác nghe nói vẫn có người đánh chửi vợ!. Đó là một điều đáng xấu hổ. Như thế thì còn gì là tình nghĩa vợ chồng? Như thế là phạm pháp, là cực kỳ dã man. Chi bộ đảng phải giáo dục đảng viên và nhân dân về quyền bình đẳng giữa vợ chồng. Đoàn thể phụ nữ và thanh niên phải bảo ban nhau cách cư xử hoà thuận trong gia đình. Bác mong rằng: từ nay về sau sẽ không còn thói xấu đánh chửi vợ nữa.

Bây giờ Bác nói đến tình hình hợp tác xã nông nghiệp ở Thái Bình. Nói chung đều có tiến bộ, thu hoạch khá. Nhưng chưa phải hợp tác xã nào cũng đều tốt cả. Cho nên các hợp tác xã đã khá rồi phải cố gắng vươn lên nữa. Các hợp tác xã kém thì phải cố gắng tiến lên thành hợp tác xã khá. Các hợp tác xã đều phải:

- Đoàn kết chặt chẽ giữa xã viên với nhau, đoàn kết giữa ban quản trị và xã viên.

- Thực hành dân chủ, nghĩa là công việc đều phải bàn bạc với xã viên, cán bộ không được quan liêu, mệnh lệnh.

- Tài chính phải công khai, tuyệt đối chống tham ô, lãng phí.

Các hợp tác xã phải làm thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là người chủ tập thể của hợp tác xã, có quyền bàn bạc và quyền quyết định những công việc của hợp tác xã. Có như thế thì xã viên sẽ đoàn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và hợp tác xã sẽ tiến bộ không ngừng.

Năm nay, Thái Bình được mùa khá. Nhưng chớ thấy được mùa mà chủ quan, cụ thể là:

a. Phải cố gắng hơn nữa, không nên cho như thế là đủ rồi. Phải làm cho năng suất cao hơn nữa;

b. Phải tiết kiệm, không được lãng phí;

c. Thái Bình vốn là một tỉnh đất hẹp, người đông. Cho nên phải hết sức tăng năng suất cây trồng, nhưng vẫn phải đi vỡ hoang thêm ruộng đất. Trong việc vỡ hoang có xã Nam Cường, năm nọ Bác về thăm thì mới bắt đầu vỡ hoang. Bây giờ Nam Cường chẳng những sản xuất đủ ăn mà còn xung phong bán thóc làm nghĩa vụ cho Nhà nước. Như thế là rất tốt.

Ruộng đất khôn lắm, nó cũng biết suy tính đấy. Người chăm sóc nó chừng nào thì nó trả ơn cho người chừng nấy. Về chuyện ruộng đất, có hai nhóm tranh luận với nhau: nhóm A thì cho đất tốt là do người chăm sóc nó. Nhóm B thì cho   đất tốt, đất xấu là do nó vốn có sẵn như vậy. Bác cho rằng nhóm A là đúng. Như hợp tác xã Tân Phong chẳng hạn. Đất Tân Phong trước đây cũng không tốt mấy. Nhưng Đảng bộ và bà con xã viên ở đó quyết tâm cải tạo đất. Bây giờ cả hợp tác xã Tân Phong đạt hơn 7 tấn thóc/1 hecta. Đạt được như vậy cũng chưa phải là tột bậc, còn có thể đạt cao hơn nữa.

Bác nghe nói ở Thái Bình đang có phong trào báo công, bình công. Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, ai có công thì báo công và đưa ra trước xã viên bình công. Làm như thế là tốt, vì:

- Ai có công, ai không có công, bà con xã viên đều biết. Do đó thúc đẩy lẫn nhau cùng cố gắng lập công mới.

- Người có công gì tự báo công để tập thể bình bầu, như thế là thực hành quyền dân chủ trong nhân dân, làm cho mọi người đều phấn khởi và cố gắng.

- Đó cũng là một dịp phê bình và tự phê bình một cách thiết thực, nhân dân tự giác giáo dục lẫn nhau, qua đó mà mọi người biết làm việc gì thì tốt, làm thế nào là tốt...

- Về việc xây dựng Đảng ở Thái Bình, phát triển Đảng như vậy là khá. Nhưng đảng viên phụ nữ hiện nay mới chiếm 17% tổng số đảng viên, như thế là còn ít, còn hẹp hòi với phụ nữ. Trong lúc đề bạt cán bộ trẻ, phải chú ý đến sự đoàn kết giữa đảng viên cũ và đảng viên mới. Trong Đảng ta có nhiều đảng viên già, nhiều đảng viên trẻ. Đảng viên nhiều tuổi thì từng trải. Đảng viên trẻ tuổi thì hăng hái. Cho nên đảng viên phải giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau tiến bộ. Công việc cách mạng rất nhiều, không sợ thiếu việc. Phải chú ý đến phát triển Đảng vào thanh niên. Không nên hẹp hòi. Nhưng việc phát triển Đảng phải làm cẩn thận, không được cẩu thả.

Còn hai điều nữa phải rất chú ý:

Một là, việc phòng không nhân dân phải làm tốt hơn nữa. Địch càng thua, càng liều lĩnh. Chiến tranh có thể gay go hơn. Cho nên phải đào nhiều hầm hào để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Hai là, nhân dân phải ra sức bảo vệ tài sản của Nhà nước và của hợp tác xã hơn nữa. Phải giáo dục nhân dân, làm cho mọi người rõ: của Nhà nước, của hợp tác xã tức là của mình, do đó mọi người phải ra sức giữ gìn, không để cho mất mát, hao hụt.

Cuối cùng, Bác nhờ các cụ, các cô, các chú chuyển lời thăm hỏi tới toàn thể bà con xã viên trong hợp tác xã, công nhân trong xí nghiệp, cán bộ trong cơ quan, các đơn vị bộ đội và công an, dân quân trong tỉnh. Năm nọ Bác về thăm, cán bộ và đồng bào trong tỉnh đã hứa với Bác sẽ đưa phong trào tiến lên mạnh mẽ. Bây giờ, Bác rất vui lòng thấy Thái Bình có tiến bộ nhiều. Bác mong các đồng chí và đồng bào đều cố gắng hơn nữa để làm cho Thái Bình trở thành một tỉnh gương mẫu về mọi mặt.

III- THỰC HIỆN LỜI CĂN DẶN CỦA NGƯỜI “LÀM CHO THÁI BÌNH TRỞ THÀNH MỘT TỈNH GƯƠNG MẪU VỀ MỌI MẶT”

Trong suốt 55 năm (1966- 2021) kể từ khi Bác về thăm tỉnh lần thứ năm và 60 năm Bác về thăm Thái Bình lần thứ tư (1962-2022), những tình cảm sâu nặng, lời chỉ bảo ân tình và mong muốn của Bác đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi người dân Thái Bình, trở thành động lực tinh thần to lớn, thôi thúc Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đoàn kết thống nhất, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành thắng lợi, toàn diện nhiệm vụ chính trị trong các giai đoạn cách mạng.

Thái Bình luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, trở thành điểm sáng ở miền Bắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đầu trên nhiều lĩnh vực, là minh chứng thuyết phục về tính đúng đắn đường lối của Đảng qua việc quán triệt nghiêm túc, vận dụng cụ thể và sáng tạo tại địa phương. Kinh tế phát triển tương đối toàn diện, điển hình là trong nông nghiệp. Tính đến năm 1975, tổng sản lượng lương thực tăng gấp 2 lần, chăn nuôi tăng gần 3 lần so với năm 1954. Quan hệ sản xuất mới được xây dựng và củng cố. Đời sống văn hóa - xã hội phát triển mạnh mẽ. Cơ sở vật chất kỹ thuật được kiến thiết một bước cơ bản, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn nghèo nàn, lạc hậu trước đây.

Ngay trong khói lửa chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, lực lượng lao động nam giới được huy động cho chiến trường, lao động còn lại ở địa phương chiếm từ 70-75% là nữ, nhưng Thái Bình luôn dẫn đầu năng suất lúa toàn miền Bắc, đạt bình quân 5 tấn/ha năm 1966; 6 tấn/ha năm 1972; 7 tấn/ha năm 1974. "Quê hương 5 tấn" Thái Bình là niềm tự hào, là biểu tượng về tinh thần nỗ lực thi đua lao động sản xuất nông nghiệp của cả miền Bắc khi đó. Với tinh thần "Thái Bình dốc lòng chi viện cho tiền tuyến", mặc dù chỉ chiếm 5% diện tích canh tác của miền Bắc, Thái Bình luôn đóng góp cho Nhà nước từ 10 - 12% tổng lượng lương thực huy động của miền Bắc.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên cả nước lên đường chống đế quốc Mỹ xâm lược, từ năm 1965 đến 1975, Thái Bình đã động viên 18% dân số lên đường tòng quân, đi Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Thái Bình là tỉnh có tỷ lệ tuyển quân so với dân số cao nhất miền Bắc. Khi đế quốc Mỹ dùng không quân và hải quân phong tỏa, đánh phá miền Bắc, với phong trào "toàn dân đánh giặc", quân và dân Thái Bình đã bắn rơi 44 máy bay, bắn cháy 4 tàu chiến của địch, hạn chế thấp nhất thiệt hại về tính mạng và của cải, cùng toàn miền Bắc "chia lửa" với chiến trường miền Nam, góp phần bảo vệ vững chắc hậu phương xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm 1975 - 1986, Thái Bình nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời làm tròn nghĩa vụ hậu phương trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Thái Bình tiếp tục là điểm sáng của cả nước trong xây dựng mô hình cấp huyện, đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn, chi viện nhân lực tới khai phá các vùng kinh tế mới theo chủ trương của Nhà nước, từng bước ổn định đời sống nhân dân.

Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh tiếp tục giành được nhiều thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện. Hai mươi năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Thái Bình đã thực hiện thành công Chương trình “điện, đường, trường, trạm, thông tin, nước sạch”, làm thay đổi rõ nét bộ mặt nông thôn. Thực hiện 5 trọng tâm phát triển kinh tế được đề ra từ Đại hội lần thứ XVI, đã quy hoạch và xây dựng được các khu, cụm công nghiệp, đẩy mạnh phát triển nghề và làng nghề, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp, hình thành một số vùng sản xuất hàng hoá và phát triển kinh tế biển, đưa nền kinh tế của tỉnh thoát khỏi tình trạng trì trệ, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, GDP bình quân tăng 7,2%/năm.

Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020, bên cạnh những thuận lợi còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen, song với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế tiếp tục ổn định và duy trì đà tăng trưởng khá; năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 song kinh tế của tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng dương. Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP (giá so sánh) ước đạt 53.523 tỷ đồng, tăng 3,23% so với năm 2019 (kế hoạch tăng 10%); tổng giá trị sản xuất ước đạt 154.251 tỷ đồng, tăng 1,8%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực.

Nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển khá toàn diện, đang chuyển dần sang sản xuất hàng hoá gắn với tập trung, tích tụ đất đai và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phát triển nông nghiệp hữu cơ, sản xuất theo chuỗi giá trị. Tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp tăng cao; năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất và mức độ cơ giới hóa tăng lên rõ rệt. Công tác quy hoạch, thu hút đầu tư xây dựng các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được quan tâm; đã thu hút được nhà đầu tư lớn vào đầu tư phục vụ nông nghiệp tại huyện Quỳnh Phụ. Các loại hình sản xuất nông nghiệp có giá trị kinh tế cao được đẩy mạnh triển khai; xuất hiện nhiều hình thức liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân để tổ chức sản xuất với quy mô lớn, đạt hiệu quả kinh tế cao; các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản theo hình thức tập trung, ứng dụng công nghệ cao được nhân rộng; chăn nuôi trâu, bò thương phẩm theo chuỗi liên kết bước đầu được chú trọng. Năng lực khai thác đánh bắt hải sản xa bờ tiếp tục được nâng lên.

Xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh và đạt được những thành quả quan trọng. Đến hết năm 2019, đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới trên phạm vi toàn tỉnh, vượt trước 3 năm so với mục tiêu Đại hội XIX; đặc biệt, có 100% dân cư nông thôn được cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt, vượt trước 2 năm so với mục tiêu Đại hội XIX. Kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được nâng cấp, hoàn thiện; đời sống vật chất, tinh thần của người dân từng bước được cải thiện. Xây dựng nông thôn mới nâng cao đang được tích cực triển khai thực hiện. Đến hết năm 2020 có 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 04 xã hoàn thành thẩm định đạt 11/11 tiêu chí.

Sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng trưởng khá; cơ cấu lại các ngành sản xuất công nghiệp đạt kết quả bước đầu; tập trung phát triển một số ngành công nghiệp theo hướng sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, từng bước xây dựng thương hiệu, sức cạnh tranh của sản phẩm. Đã kịp thời thực hiện hiệu quả các giải pháp của Chính phủ và của tỉnh về tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nhất là sau đại dịch Covid-19; hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư được chú trọng và đạt nhiều kết quả. Quy mô giá trị sản xuất và số lượng doanh nghiệp tăng nhanh; nhiều doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sản xuất mặt hàng mới, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, mở rộng thị trường nội địa và xuất khẩu.

Huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường và đạt kết quả tốt (nhất là nguồn vốn xã hội hóa). Nguồn vốn đầu tư công được phân bổ tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng trọng điểm và ưu tiên thanh toán nợ xây dựng cơ bản. Kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư hoàn thiện khá đồng bộ. Các chính sách thu hút đầu tư được điều chỉnh, bổ sung kịp thời và thực hiện có hiệu quả; đã huy động được nguồn vốn xã hội lớn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội[1]. Tập trung xây dựng hạ tầng giao thông, nhất là các trục giao thông kết nối các đô thị trong tỉnh với các trung tâm kinh tế vùng và tỉnh, thành phố lân cận. Hạ tầng thuỷ lợi, y tế, giáo dục, hạ tầng nông thôn mới... được quan tâm đầu tư, phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh.

Thương mại, dịch vụ từng bước phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống Nhân dân. Kết cấu hạ tầng thương mại, du lịch tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Hoạt động xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, hỗ trợ tích cực và kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm. Phát triển du lịch gắn với phát huy các giá trị văn hoá truyền thống được chú trọng. Dịch vụ vận tải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... phát triển khá mạnh, cơ bản đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Công tác quy hoạch, xây dựng Khu kinh tế Thái Bình được đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Khu kinh tế Thái Bình đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và phê duyệt Quy hoạch chung, tạo vị thế, điều kiện và đột phá mới cho tỉnh khai thác tiềm năng, lợi thế ven biển để phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch và đô thị hướng biển trong những năm tới. Chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư trong Khu kinh tế Thái Bình đã hoàn thành và được cấp có thẩm quyền phê duyệt.  

Các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại, hoạt động có hiệu quả. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh ở nhiều lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào giải quyết việc làm, tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách của tỉnh. Kinh tế tập thể được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển; các hợp tác xã chuyển đổi theo luật, chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.

Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường, công tác phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng. Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tài nguyên nước, khoáng sản cát bảo đảm quy định. Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, điều chỉnh, chuyển mục đích sử dụng đất, tạo quỹ đất đáp ứng nhu cầu thực hiện các dự án đầu tư, tạo nguồn thu ngân sách từ đất phục vụ xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Các lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và phát triển con người có chuyển biến tích cực. Nhận thức về vai trò của văn hoá được nâng cao. Truyền thống văn hoá, văn hiến, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái Bình được chú trọng phát huy nhằm khơi dậy lòng tự hào, động lực, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong tỉnh. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ngày càng phát triển sâu rộng, góp phần xây dựng môi trường văn hoá, nếp sống văn hoá ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và khu dân cư, phát huy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Đời sống văn hoá của Nhân dân được cải thiện và nâng cao. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Hoạt động văn học, nghệ thuật có nhiều tiến bộ; nhiều nghệ sĩ, nghệ nhân đạt nhiều giải thưởng của các bộ, ngành Trung ương. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng được duy trì và phát triển. Thể thao thành tích cao đạt nhiều huy chương tại các giải thi đấu quốc gia, quốc tế. Chất lượng giáo dục thể chất trong trường học tiếp tục được nâng cao. Hệ thống thiết chế văn hoá, thể thao được quan tâm đầu tư phát triển.

Giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ tiếp tục đạt nhiều thành tựu quan trọng. Quy mô giáo dục và đào tạo được mở rộng, chất lượng giáo dục toàn diện ở các bậc học tiếp tục được nâng lên; duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và xoá mù chữ; tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng luôn đứng tốp đầu cả nước. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được củng cố, kiện toàn, đạt chuẩn. Cơ sở vật chất trường, lớp được tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp theo chuẩn quốc gia. Đã tích cực sắp xếp lại các trường trung học cơ sở, tiểu học, mầm non, bảo đảm ổn định. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề được tổ chức lại, chất lượng đào tạo được nâng lên.

Công tác chăm sóc sức khoẻ Nhân dân; công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình và bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em được tăng cường. Hệ thống y tế được sắp xếp, kiện toàn, năng lực chuyên môn ngày càng được nâng cao. Cơ sở vật chất và trang thiết bị ngành y tế được quan tâm đầu tư nâng cấp, đầu tư mới đáp ứng yêu cầu xã hội. Công tác y tế dự phòng; phòng, chống dịch bệnh và các chương trình mục tiêu y tế được chủ động triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả, nhất là công tác phòng, chống dịch Covid-19. Chất lượng khám, chữa bệnh ở các tuyến và các dịch vụ y tế được nâng lên. Xã hội hóa hoạt động y tế được đẩy mạnh. Các chỉ tiêu phát triển y tế đều ở mức cao so với bình quân chung cả nước.

Công tác bảo đảm an sinh, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được chú trọng. Chính sách đối với người và gia đình có công với cách mạng, các chính sách an sinh và bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Công tác hỗ trợ, thăm hỏi, động viên các gia đình chính sách nhân dịp Tết, lễ được quan tâm, duy trì thường xuyên, nền nếp. Chương trình hỗ trợ người có công, hộ nghèo cải thiện nhà ở; giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững được triển khai thực hiện có hiệu quả. Năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn đa chiều) giảm còn 2,06%, bằng gần một nửa mức bình quân cả nước. Phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa” và các hoạt động nhân đạo, từ thiện được toàn xã hội quan tâm, thực hiện thiết thực, hiệu quả.

Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được mở rộng, từng bước đi vào chiều sâu. Các hoạt động đối ngoại của địa phương được triển khai đồng bộ, toàn diện. Số lượng đối tác nước ngoài đến tỉnh làm việc, tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh liên tục tăng lên. Công tác thông tin đối ngoại được chú trọng, đã góp phần quảng bá hình ảnh, giới thiệu cơ hội đầu tư, tiềm năng hợp tác phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường; an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Các lực lượng vũ trang luôn phối hợp chặt chẽ trong thực hiện nhiệm vụ, chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo xử lý kịp thời, có hiệu quả các vụ việc phức tạp từ cơ sở. Trình độ tổ chức chỉ huy, khả năng sẵn sàng chiến đấu ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, bảo vệ an toàn các mục tiêu trọng yếu. Công tác tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ các cấp; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng và tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ hàng năm đạt kết quả tốt, hoàn thành 100% chỉ tiêu được giao.  

Công tác bảo đảm trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông có nhiều tiến bộ. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, nhất là các băng nhóm tội phạm có tổ chức và tệ nạn xã hội có chuyển biến tích cực. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được quan tâm; việc tuyên truyền, giáo dục ý thức cảnh giác, phòng ngừa các tệ nạn xã hội Công tác quân sự, quốc phòng được tăng cường; đã tổ chức thành công diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh đảm bảo yêu cầu đề ra; thực hiện tốt việc tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; không có tội phạm có tổ chức, băng, ổ nhóm tội phạm nguy hiểm; vi phạm trật tự an toàn xã hội giảm 8,8%; tai nạn giao thông giảm cả 3 chỉ số.

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng được tăng cường; nội dung, hình thức và phương pháp được đổi mới; chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Đảng bộ đã kịp thời phổ biến, quán triệt đầy đủ các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và Nhà nước; đồng thời, cụ thể hoá, vận dụng, ban hành các nghị quyết, chủ trương, kế hoạch của cấp uỷ các cấp để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền chủ trương, nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới và bảo đảm chất lượng. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được chú trọng, tổ chức tốt việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và của cấp uỷ tỉnh. Kịp thời nắm bắt, định hướng dư luận xã hội; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ động, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá; tạo được sự đồng thuận, củng cố niềm tin trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.

Công tác bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên được chú trọng. Thực hiện thường xuyên, có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng. Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường giáo dục, phát huy truyền thống văn hóa, văn hiến, yêu nước, cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dânQuy định và chỉ đạo, thực hiện nghiêm trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, tạo sự chuyển biến tích cực trong việc tu dưỡng, rèn luyện và hành động của toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức xây dựng Đảng ngày càng được chú trọng. Đã tập trung sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tỉnh theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XII. Kết quả sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã giảm 70 tổ chức cơ sở đảng, 1.848 biên chế. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Chất lượng ban hành nghị quyết của cấp uỷ, chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng lênCông tác phát triển đảng viên và giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên có nhiều đổi mới, bảo đảm chặt chẽ và thực chất.    

Công tác cán bộ được tiếp tục đổi mới, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý đội ngũ cán bộ. Trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ các cấp được nâng lên. Đã kịp thời cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương, quy định của Đảng; xây dựng, sửa đổi, bổ sung và thực hiện đồng bộ các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch, đề án, quy chế, quy định liên quan đến công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng và điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử bảo đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch, đúng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy và sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp xã được thực hiện nghiêm túc, thận trọng, có lộ trình, bảo đảm hoạt động ổn định, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Công tác kiểm tra, giám sát tiếp tục được chú trọng, góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Các cấp uỷ, tổ chức đảng đã xây dựng và triển khai thực hiện nghiêm túc chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá, hằng năm và các nhiệm vụ kiểm tra theo chỉ đạo của cấp trên, chú trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm, các lĩnh vực trọng yếu, nhạy cảm, được dư luận quan tâm. Công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên, thi hành kỷ luật trong Đảng được thực hiện nghiêm túc, đúng nguyên tắc và quy định của Đảng; đã kịp thời uốn nắn những lệch lạc, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, hạn chế vi phạm kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên.

Công tác dân vận có nhiều đổi mới, đã bám sát chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, tham gia giải quyết có hiệu quả những vấn đề phức tạp, bức xúc, góp phần ổn định tình hình, tạo sự đồng thuận, thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, tạo không khí dân chủ, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế công tác dân vận, quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dântổ chức cho Nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.

Công tác nội chính, phòng chống tham nhũng và cải cách tư pháp được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiệnđạt kết quả tích cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dânĐã ban hành và thực hiện tốt Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với Nhân dânCác biện pháp phòng ngừa tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của các tổ chức, cơ quan, đơn vị được mở rộng và phát huy hiệu quả; việc ban hành, thực hiện các quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, quản lý kinh tế - xã hội đạt kết quả tích cực.

Phương thức làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng có nhiều đổi mới, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn. Chất lượng các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương và cấp uỷ các cấp được nâng lên rõ rệt. Nghị quyết, chủ trương của cấp uỷ các cấp, nhất là cấp ủy tỉnh được ban hành sát thực tiễn, đồng bộ, kịp thời giải quyết có hiệu quả những vấn đề trọng tâm, cấp bách và hoạch định rõ chiến lược phát triển. Các chương trình, quy chế làm việc, kế hoạch công tác được xây dựng và thường xuyên rà soát, bổ sung kịp thời, đúng các nguyên tắc, quy định của Đảng, rõ hơn về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tăng cường phân cấp, phân nhiệmbảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của cấp uỷ, tổ chức đảng; phát huy vai trò, trách nhiệm của chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị; trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu 

Hoạt động của Hội đồng Nhân dân các cấp tiếp tục được đổi mới, nâng cao chất lượng, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; chất lượng các kỳ họp, chất vấn và trách nhiệm giải trình được nâng lên. Công tác thẩm tra các nội dung trước khi trình Hội đồng Nhân dân tại các kỳ họp và giám sát việc triển khai các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân được chú trọng.

Uỷ ban Nhân dân các cấp đã tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành; thể chế hoá kịp thời chủ trương của cấp uỷ, triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân cùng cấp. Công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được tăng cường; tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các cơ chế chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh; kịp thời xử lý những vấn đề vướng mắc, tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến tích cực; hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh và Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện được đổi mới theo phương châm "5 tại chỗ", bảo đảm công khai, minh bạch, được người dân, doanh nghiệp đồng tình, đánh giá cao. Các chỉ số về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh, hiệu quả quản trị và hành chính công của tỉnh tiếp tục được cải thiện[2].  

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; phát huy tốt vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân. Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước gắn với phong trào thi đua "Dân vận khéo" được triển khai có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh, hướng mạnh về cơ sở; nhiều phong trào đạt hiệu quả cao. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đạt kết quả tốt; việc tập hợp, phản ánh ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và giám sát, phản biện xã hội từng bước đi vào nền nếp, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân[3], tạo sự đồng thuận, thống nhất của cả cộng đồng.

Với những thành tích, đóng góp, hy sinh to lớn và đặc biệt xuất sắc trong các cuộc kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng bộ, nhân dân, các lực lượng vũ trang Thái Bình đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng các danh hiệu cao quý: Huân chương Độc lập, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân[4], Anh hùng Lao động v.v…Đến nay, toàn tỉnh có 332.827 người được Nhà nước ghi nhận có công với cách mạng, trong đó có 916 người được công nhận là cán bộ Lão thành cách mạng; 258 người được công nhận là cán bộ Tiền khởi nghĩa; trên 5.500 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”; trên 100 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng lao động; hơn 50 ngàn người con của quê hương Thái Bình đã anh dũng hy sinh trong các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; 32 nghìn thương binh, bệnh binh; gần 50 nghìn gia đình có công với nước.

Kỷ niệm 55 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ năm và 60 năm  Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ tư chúng ta bồi hồi, xúc động, thành kính tưởng nhớ và biết ơn những tình cảm sâu nặng, ân tình và công lao trời biển của Bác; thành kính tưởng nhớ và biết ơn các anh hùng liệt sĩ, lớp lớp thế hệ cha anh đã tin tưởng, phấn đấu đi theo con đường của Bác, không quản ngại gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vì sự bình yên của quê hương, đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Chúng ta trân trọng công sức, trí tuệ của các thế hệ đã bảo vệ, xây đắp quê hương Thái Bình ngày càng đổi mới và phát triển.

Trong những năm tới, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình không ngừng nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX đã đề ra: “Phát huy thành quả và kinh nghiệm của các nhiệm kỳ qua, xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, phát triển kinh tế nhanh và bền vững gắn với bảo vệ môi trường; chú trọng phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Phấn đấu xây dựng Thái Bình đến năm 2025 trở thành tỉnh phát triển khá, đến năm 2030 theo kịp nhóm dẫn đầu và đến năm 2045 là tỉnh phát triển trong khu vực đồng bằng sông Hồng”. Trước mắt, lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển của tỉnh trong những năm tới, trong đó tập trung vào 5 nhiệm vụ giải pháp trọng tâm: (1) Tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. (2) Tích cực đổi mới sáng tạo và thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; thực hiện nghiêm túc cơ chế trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu các sở, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. (3) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hàng hóa quy mô lớn và tham gia vào chuỗi giá trị; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thu hút, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. (4) Thường xuyên củng cố, xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh. Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác nắm, dự báo tình hình; thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm; thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân và đối thoại với công dân; kịp thời giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân và những vấn đề bức xúc mới nảy sinh ngay tại cơ sở, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình thực tiễn. (5) Xây dựng con người Thái Bình phát triển toàn diện cả về đạo đức, nhân cách, trí tuệ, thể chất và năng lực. Tích cực đổi mới công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy truyền thống văn hoá, yêu nước, cách mạng của quê hương Thái Bình; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Thực hiện tốt chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.

Đồng thời, thực hiện ba đột phá chiến lược thúc đẩy, tăng trưởng kinh tế địa phương: (1) Tăng cường cải cách hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. (2) Tập trung xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông kết nối các trục giao thông đầu mối trong tỉnh với các trung tâm kinh tế vùng Duyên hải Bắc Bộ; trong đó, tập trung hoàn thành đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển và các tuyến đường liên huyện huyết mạch. Xây dựng và phát triển Khu kinh tế Thái Bình thành trọng điểm, động lực phát triển kinh tế của tỉnh. (3) Đẩy mạnh phát triển ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, chú trọng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ cho phát triển nông nghiệp và đời sống Nhân dân. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

*     *

*

Kỷ niệm 55 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ năm (31/12/1966-31/12/2021) và 60 năm Ngày Bác Hồ về thăm Thái Bình lần thứ tư (26/3/1962-26/3/2022), là dịp để chúng ta ôn lại năm lần Thái Bình vinh dự đón Bác về thăm, truyền thống cách mạng vẻ vang của quê hương, về những thành tựu trong quá trình thực hiện lời Bác dạy mà Ðảng bộ và nhân dân Thái Bình đã đạt được. Qua đó giúp chúng ta nhận thức rõ thành quả vẻ vang đạt được của ngày hôm nay, là kết quả phấn đấu bền bỉ của các thế hệ cha anh dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng; bồi đắp thêm niềm tự hào về Ðảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, dân tộc Việt Nam anh hùng.

Với truyền thống văn hoá, văn hiến, truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường, với lòng biết ơn vô hạn, với những tình cảm mà Bác đã dành cho Thái Bình, Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh sẽ mãi mãi khắc ghi lời Bác dạy, nguyện sống, chiến đấu, lao động và học tập theo Người; tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020- 2025 đề ra, sớm hiện thực hóa Lời căn dặn của Người: “Làm cho Thái Bình trở thành một tỉnh gương mẫu về mọi mặt”.

                                                                 BAN TUYÊN GIÁO TỈNH UỶ